QUY MÔ ĐÌNH VÀ CHÙA VIỆT NAM

ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM HIỂU SAO CHO ĐÚNG ?

Trước khi nói về tại sao có đình làng , thì làng là nơi đinh cư tập chung đông đúc của nhiều hộ gia đình trong thời phong kiến của người việt phát triển cho đến ngày nay. cho đến hiện nay nhiều làng vẫn giữ được nét văn hóa phong tục tập quán của làng như các lễ hội văn hóa hay làng nghề truyền thống. 

Làng là một hình thức thông thường của cộng đồng xã hội sản xuất nông nghiệp và cũng xuất hiện ít trong những xã hội phi nông nghiệp. Trong Cuộc Cách mạng Công nghiệp đã thu hút một lượng lớn người tập trung lại để làm việc trong các công xưởng và nhà máy, sự tập trung con người này khiến nhiều ngôi làng phát triển thành những thị trấn và thành phố. Điều này cũng kích thích chuyên môn hóa thủ công mỹ nghệ, và phát triển giao dịch. Xu hướng đô thị hóa vẫn đang tiếp tục, mặc dù không phải luôn liên quan đến công nghiệp hóa.

Tại sao có đình làng ?

Làng của người việt xưa được hình thành từ một người hay một hộ gia đình đi làm kinh tế như khai hoang bở dặm, dần kéo theo nhiều hộ gia đình rồi sinh sôi nảy nở thành nhiều hộ gia đình khác, để bảo vệ khỏi thú dữ cũng như cướp bóc họ xây thành lũy trồng tre đao rãnh, kênh, mương nước chỉ để 1 cổng vào chính và 3 cổng phụ, cũng có làng chỉ một cổng vào và ra.

Cùng với những truyền thuyết, rồi tiến ngưỡng người dân tin vào thần linh, thổ địa họ thờ cúng thần linh và thành hoàng làng(người sáng lập ra ngôi làng đó, hay một nhân vật nào đó giúp dân làng trừ yêu diệt ma, có công cứu dân làng). 

Từ đó hình thành lên đình làng, cũng là nơi để giao lưu văn hóa hay sinh hoạt tập tục của làng, để gắn kết tình làng nghĩa xóm hơn. 

Đình làng cũng được thiết kế và quy hoạch chuẩn phong thủy, địa lý xưa khi lão giáo và nho giáo du nhập vào việt nam, như đình làng theo quy hoạch xưa là đình làng quay hướng nam, như quý vị biết đất nước việt nam hướng gió chủ đạo là đông nam, nam. đình làng được xây dựng trên nền đất cao giáo thoáng mát, tạo vẻ uy nghi, mái đình thấp rũ xuống che chắn gió bảo, tạo không gian ấm cúng. bên cạnh đó đình làng là nơi tâm linh (tâm là xuất phát từ cái tấm lòng con người, linh là công trình thiêng liêng hay còn gọi là linh thiêng).

Tại sao đình không quy hướng đông nam là hướng gió chủ đạo nhất ?

Vì theo độ lệch của trái đất là 23° nghiêng so với trục bắc nam của trái đất và đường đi của trái đất quanh mặt trời bị lệch nên mới xuất hiện hai mùa rõ dệt đó là mùa nắng và mùa mưa, hơn nữa mặt trời mọc ở hướng đông và lặn tại hướng tây. vì thế hướng đông nam vào mùa mưa sẽ chịu tất cả các cơn bảo từ phía đông và nắng gắt từ phía mặt trời mọc. nên hướng nam được người xưa xem như hướng thuận, mang ý nghĩa mưa thuận gió hòa. 

Vì sao đình làng xưa hà nhà ở nông thôn xưa không quy được hướng khác ? vì vị trí địa lý miền bắc việt nam vào mùa đông thì có gió đông bắc mang khí hàn(lạnh) sẽ ảnh hưởng đến phổi khiến sức khỏe con người bị suy giảm, hướng tây và tây bắc rất nóng vào mùa hè, cũng như tây nào có gió phơn tây nam hay gọi là gió lào thổi từ thềm lục đia qua mất hơi nước chỉ đem theo sức nóng khô hanh.

Cũng vì những yếu tố trên lâu dần đúc kết kinh nghiệm truyền miệng và cổng làng cũng được quay hướng nam với mong muốn mưa thuận gió hòa, hơn nữa khi khoa học phát triển thì con người ta mới phát hiện từ trường bắc nam, lại càng thêm minh chứng cho việc chọn đình hướng nam là đúng đắn của người xưa.

CHÙA VIỆT NAM

Chùa việt nam được phát triển dựa trên nền tảng kiến trúc truyền thống xưa hay còn gọi là đình làng, cũng mang sắc màu tâm linh, nhưng phát triển mạnh hơn đình làng. Mái chùa việt nam thì không cong như chùa nhật bản hay thái làm, trung quốc.

Phật giáo được du nhập việt nam vào thế kỷ13 dưới thời phật hoàng Trần Nhân Tông thì phát triển mạnh mẽ, đưa con người đến với cái “chân thiện mỹ”. 

Tuy nhiên Kiến trúc chùa việt nam phát triển dựa trên kính trúc kinh thành nhiều hơn theo các bộ chữ hán cổ, hay phật học. mang ý nghĩa sâu sắc hơn.

Việt Nam hiện có 14.775 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích Việt Nam. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (điển hình là thờ các vị thiền sư: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông và Lý Thần Tông), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ.

Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ “chiền” (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)… Một số người cho rằng từ “chiền” có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.

Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu chữ Tam phổ biến hơn miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer xây theo kiến trúc của Campuchia và Thái Lan – vốn ảnh hưởng văn hóa của đế chế Khmer. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.

CÁC DẠNG QUY HOẠCH ĐÌNH CHÙA VIỆT NAM

Chùa chữ Đinh

Chùa chữ Đinh (丁), có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hà Nội); chùa Dư Hàng (Hải Phòng),…

Chùa chữ Công

Chùa chữ Công (工) là chùa có ‘nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình),..

Chùa chữ Tam

Chùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Kim Liên, chùa Tây Phương ở Hà Nội có dạng bố cục như thế này.

Chùa kiểu Nội công ngoại quốc

Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh như bộ Vi (口) bao bên ngoài như ở chữ Quốc (國).

Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan. Chùa kiểu chữ Công (宮) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.

16 thoughts on “THIẾT KẾ THI CÔNG ĐÌNH CHÙA VIỆT NAM CHUẨN TRUYỀN THỐNG

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *